
1. Miêu tả về di sản văn hóa phi vật thể
1.1 Quá trình ra đời và tồn tại : Lễ hội Cầu Ngư bắt nguồn từ tục thờ Ông Nam Hải – là tập tục lâu đời của cư dân vùng biển từ Quảng Bình trở vào, trong đó đậm đặc nhất là vùng Nam Trung bộ. Ông Nam Hải, thực ra là loài cá Voi – loài cá có thân hình to lớn, nhưng bản tính lại hiền hoà, thường cứu giúp những ngư dân mỗi khi gặp nạn trên biển được ngư dân các tỉnh phía Nam gọi cá “Đức Ông”,”Cá Ông” hay “Ông Nam Hải”. Khi Cá Ông chết, trôi dạt vào bờ thuộc địa phận của làng biển nào, thì làng biển ấy phải tổ chức lễ tang long trọng và lập Lăng thờ phụng và cúng tế rất nghiêm cẩn. Lễ tế Ông Nam Hải ngày nay thường được gọi là Lễ hội Cầu Ngư.
1.2. Những truyền thuyết về tục thờ Cá Voi
Tục thờ Cá Ông ra đời từ bao giờ và đâu là nơi phát tích đến nay vẫn chưa thể khẳng định chính xác. Để giải thích cho tục thờ Cá Voi có nhiều truyền thuyết, trong đó một số truyền thuyết, chuyện kể vẫn còn được lưu truyền cho đến hôm nay:
– Trong thần thoại Chăm kể lại: Sau thời gian rèn luyện phép thuật vì nôn nóng trở về xứ sở, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi nên sau đó đã bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng Biển), cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị đắm thuyền.
– Truyền thuyết Phật giáo kể rằng: Ngày xưa, Đức Phật Bà Nam Hải Quan m, khi đi tuần du Nam Hải, Ngài rất đau xót khi mỗi mùa biển động, bão tố, nhiều thuyền nhân và ngư dân bị đắm thuyền và chết trôi trên biển cả. Để cứu giúp những sanh linh, Ngài liền lấy chiếc áo cà sa đang mặc và xé ra làm ngàn mảnh nhỏ ném xuống biển khơi, rồi hoá phép thành loài cá Voi có thân hình to lớn, lại ban cho cả “Phép thâu đường”để bơi thật nhanh nhằm kịp đến cứu giúp ngưòi bị nạn. Từ đó, loài cá Voi luôn là trợ thủ đắc lực trong việc cứu giúp người bị nạn trên biển. Do vậy, người dân miền biển các tỉnh phía Nam nước ta xem loài cá Voi là vị thần linh của biển khơi.
– Truyền thuyết cũng kể, trên đường bôn tẩu đến nước Xiêm để tránh cuộc truy đuổi của Nhà Tây Sơn, khi đến Vịnh Xiêm La thì gặp giông tố, lúc thuyền của Chúa Nguyễn Phúc Ánh sắp bị lật đã được Cá Ông nâng đỡ và đưa vào đảo Thổ Châu. Năm 1802, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh (Vua Gia Long) đã ban chiếu sắc phong Cá Voi là Nam Hải Đại Tướng Quân để tỏ lòng tri ân. Các vua chúa triều Nguyễn đã liên tiếp ban những sắc phong cao quý cho Cá Voi này và sắc phong cao nhất cho Ngài là: Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần.
– Riêng ở thôn Quảng Hội (xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) lại có truyền thuyết liên quan đến Quan Công và ông Nam Hải. Truyền thuyết kể rằng, một con phượng hoàng đẻ ra hai trứng, một trứng rớt xuống biển Đông hoá thành ông Nam Hải (cá voi) và trứng kia rơi trên đất liền, được một vị hoà thượng ấp trong đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quan Thánh…
Chính quyền phong kiến trước kia quy định rằng: Làng nào bắt gặp cá ông chết thì lý trưởng phải báo cho phủ, huyện để quan khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ bảy vòng và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ cúng. Sau 3 năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách, khạp, đưa vào lăng, đình, vạn, đền, miếu xây sẵn để thờ tùy địa phương. Mỗi làng đều có người trông coi hương khói và một hội đồng quản lý làng.
Từ tập tục trên, ở Khánh Hòa người thấy xác cá Ông đầu tiên phải có nhiệm vụ kéo cá vào bờ biển để tổ chức lễ tống táng. Bấy giờ họ trở thành người con trai trưởng của cá Ông và phải chịu tang 3 năm chứ không chỉ chịu tang 100 ngày như các tỉnh trong vùng. Sau khi mãn tang, hàng năm cứ vào ngày Ông “lụy” (tức là ngày cá Voi chết), bà con ngư dân long trọng tổ chức Lễ Tế Ông Nam Hải – còn gọi là Lễ hội Cầu Ngư với đầy đủ các nghi thức. Người dân miền biển tin rằng, tổ chức tế lễ càng chu đáo bao nhiêu, nghi thức càng đầy đủ bao nhiêu, thì ân đức của Ngài sẽ ban lại cho ngư dân được mùa tôm, cá, đời sống no ấm, sung túc bấy nhiêu.
Đến nay, cư dân vùng biển Khánh Hòa vẫn xem ngày này là một ngày lễ trọng và họ tổ chức thật long trọng, thành kính để cầu cho quốc thái dân an, làm ăn tấn tới và thật sự là ngày hội theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Ngoài cấu trúc thờ tự những Lăng độc lập. Ở Khánh Hòa có một số điểm thờ Cá Ông nằm chung trong Đình làng như: Trường Tây, Trí Nguyên, Trường Đông (Tp. Nha Trang), Bá Hà 1, Đông Hà (huyện Ninh Hoà). Lăng Ông Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. Nha Trang) nằm trong cụm cơ sở tín ngưỡng dân gian gồm: Chùa, Đình, Nhà Tiền hiền và Lăng Ông Nam Hải. Tuy nhiên, cấu trúc thờ tự bên trong thì vẫn giống như các Lăng độc lập. Ngày nay, việc “đình lăng kết hợp” và “phối tự phối tế” đang được nhiều ngư dân ủng hộ và có xu thế ngày càng phát triển.
2. Tiến trình của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa
Nếu lễ hội ở vùng đồng bằng Khánh Hòa thiên về sự trang nghiêm, thành kính thì Lễ hội Cầu Ngư lại thiên về sự tưng bừng, náo nức và tràn trề sức sống như những đợt sóng triều. Cũng không như các lễ hội truyền thồng khác, không gian Lễ hội thường chỉ khoanh lại trong một phạm vi điện thờ; không gian Lễ hội Cầu Ngư lại được mở rộng ra toàn làng và ngoài biển khơi mà Lăng Ông chỉ là tâm điểm.
Trong không gian mở ấy, rất nhiều nghi thức được diễn ra trong ba ngày đêm, trong đó có những nghi thức riêng có như: Lễ Nghinh Ông (Lễ Nghinh thủy triều), trò diễn Hò Bá trạo – những nghi thức lễ nhưng đầy tính chất hội hè ấy, đã tạo nên đặc trưng cho Lễ hội Cầu ngư của vùng Nam Trung bộ nói chung và Khánh Hòa nói riêng.
2.1. Lễ Rước sắc
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa diễn ra vào mùa đánh bắt hằng năm trong 3 ngày 3 đêm vào khoảng tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch. Nơi diễn ra lễ hội là toàn làng và ngoài biển, tâm điểm là Lăng Ông - nơi thờ Ông Nam Hải.
Ở Khánh Hòa, các sắc phong Ông Nam Hải thường không đặt tại Lăng mà được cất giữ tại Nhà Tiền hiền hoặc giao cho một hào lão có uy tín trong làng gìn giữ gọi là ‘Thủ sắc’, khi có lễ hội thì mới rước sắc về Lăng tổ chức bái tế. Do vậy, Lễ Rước sắc được xem như nghi thức mở đầu của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa.
Lễ Rước sắc được bắt đầu vào sáng ngày đầu tiên của Lễ hội. Đúng giờ quy định, Ban Tế lễ, các vị hào lão, những người phụng sự lễ hội và dân làng lễ phục trang nghiêm, tề tựu đầy đủ tại Nhà Tiền hiền để chuẩn bị vào cuộc lễ. Lễ gồm ba nghi thức:
– Thỉnh sắc: Được thực hiện trang trọng trước chánh điện của Nhà Tiền hiền. Ban Tế lễ thay mặt dân làng dâng hương xin với Thành hoàng và các vị Tiền Hậu hiền được thỉnh sắc Ông Nam Hải về Lăng bái tế. Ở một số nơi, Lễ Thỉnh sắc cũng chính là Lễ Tế Tiền hiền.
– Rước sắc: Được thực hiện theo hình thức đám rước long trọng. Một đám rước được tổ chức bài bản gây ấn tượng lớn cho mọi người, thu hút đông đảo dân làng tham dự và tạo nên không khí vừa thiêng liêng, vừa gần gũi – trang trọng mà là rất nhộn nhịp, tưng bừng.
– Khai sắc: Khi đám rước về đến Lăng, Ban Tế lễ đưa Long đình vào Chánh điện. Sau khi nhập Long đình vào Lăng, vị Chánh tế sẽ mang sắc phong đặt lên bàn thờ để làm Lễ Khai sắc và mở đầu cho Lễ hội Cầu Ngư.
Ngày nay, do xu hướng giản lược các nghi thức cổ truyền trong lễ hội, một số làng biển đã sáp nhập Đình làng và Lăng Ông làm một trong thờ tự và cả bái tế. Cũng từ đó, nhiều nơi đã không còn giữ được Lễ Rước sắc theo nghi thức cổ truyền mà chỉ giữ lại phần Lễ Khai sắc – một nghi thức bắt buộc trước khi vào lễ hội.
2.2. Lễ Nghinh Ông
Nếu như Lễ Rước sắc là nghi thức được sử dụng chung cho nhiều lễ hội mà nơi tổ chức hoặc vị Thần chủ được bái tế trong lễ hội ấy có sắc phong vua ban, thì Lễ Nghinh Ông là nghi thức riêng có của Lễ hội Cầu Ngư.
Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa thường được tổ chức vào giờ thủy triều lên nên còn gọi là ‘Lễ nghinh thủy triều’. Lễ được thực hiện nhằm mục đích rước hồn Ông Nam Hải từ biển khơi về Lăng trước khi Tế chánh. Vì vậy, nghi thức này còn được gọi là ‘Phụng nghinh hồi đình’. Do Lễ hội Cầu Ngư ở các làng không trùng nhau về thời gian mà theo tập tục lễ nghinh Ông phải tùy theo con nước lên, nên giờ tiến hành lễ của mỗi làng cũng mỗi khác. Nhưng đa phần Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa đều được tổ chức vào sáng sớm – là thời điểm mặt trời lên cũng như nước triều lên. Lễ Nghinh Ông thường kéo dài trong khoảng hai giờ. Đoàn thuyền tham dự Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa phải là những chiếc thuyền đánh cá đích thực và được bố trí như sau:
– Ghe lễ: Để tạo thêm diện tích cho không gian hành lễ, nhiều nơi đã cho ghép hai chiếc thuyền nhỏ hơn vào ghe chính tạo thành ghe lễ. Ghe chính được trang hoàng lộng lẫy với cờ, lọng, ở giữa ghe có một cột cờ chính treo lá cờ đại. Long đình được đặt ở mũi thuyền, phía trước có bàn hương án để đặt lễ vật bái tế. Ban Tế lễ và đội nhạc đều ngồi ở ghe chính. Hai ghe ghép cũng được trang trí cờ hoa và dành cho trống chiêng và các người phục vụ lễ.
– Ghe Bá trạo: Gồm 2 chiếc đi hai bên Ghe lễ, cũng được trang trí cờ hoa nhưng giản đơn hơn Ghe lễ. Một ghe chở một nhóm Bá trạo và Tổng Lái, ghe kia chở một nhóm Bá trạo cùng Tổng Mũi, Tổng Khoang (Tổng Thương). Đội Bá trạo phải đứng chèo hầu trong suốt quá trình hành lễ trên biển.
– Ghe dắt: Là chiếc ghe nhỏ chở đội Lân, ghe này phải nối với Ghe lễ một sợi dây và có nhiệm vụ dẫn đầu đám rước. Nhiều nơi không tổ chức ghe dắt thì đội Lân sẽ ở trên Ghe lễ.
Ngoài số ghe quy định trên, còn có nhiều ghe của ngư dân hoặc khách tham quan cũng đi theo dự lễ, tạo nên không khí tưng bừng và sắc màu cho Lễ Nghinh Ông.
Khi ra khơi, chiếc Ghe dắt chở đội Lân dẫn đầu đoàn thuyền hành lễ; Ghe Lễ đi chính giữa, hai Ghe Bá trạo đi hai bên và lui về phía sau nửa thân Ghe Lễ. Đội Bá trạo và Lân múa nhẹ nhàng theo nhịp thuyền đi nhưng không hát và không sử dụng nhạc. Ra đến cửa biển thì dừng lại và cử hành tế lễ. Sau đó, đoàn thuyền quay về trong rạng rỡ nắng mai. Ghe Lễ vẫn đi giữa, hai Ghe Bá trạo sóng đôi và đổi vị trí cho nhau để mô phỏng cách lội của Cá Ông khi dạt vào bờ tìm chỗ lụy. Tiếng chiêng, tiếng trống điểm nhịp cho đội Bá trạo hát ‘Phụng nghinh hồi đình’ trên suốt chặng đường về để rước hồn Ông nhập Lăng bái tế. Cặp bến, mũi ghe phải hướng về phía Lăng, đoàn tế lễ đưa Long đình xuống rồi cùng với dân làng rước hồn Ông nhập điện. Đến đây thì đội Siêu sẽ múa trước điện thờ để mừng Ông, sau đó đội Bá trạo lại trình diễn một lần nữa và lần này được diễn ngay trước điện thờ để mừng Ông về với cháu con.
2.3. Hò Bá Trạo
Hò Bá trạo là một trò diễn dân gian vùng Nam Trung bộ mang tính tổng thể nguyên hợp đậm nét. Với hình thức biểu diễn tổng hợp mang tính chất sân khấu dân gian như múa, hát, nói… Là trò diễn nhưng lại được xem là một nghi lễ bắt buộc chỉ riêng có trong Lễ hội Cầu Ngư ở Nam trung bộ và Khánh Hòa.
Theo cổ lệ, mỗi làng có Lăng Ông đều thành lập đội Hò Bá trạo để phục vụ cho lễ hội làng mình. Trước ngày lễ hội, làng chọn từ 15 đến 19 thanh niên khỏe mạnh để tập trò Hò Bá trạo. Trong thời gian luyện tập ấy họ phải ăn chay nằm đất, tránh sát sinh và không được quan hệ với phụ nữ nhằm giữ cho thân tâm trong sáng để phụng sự Đức Ông. Về sau cổ lệ này được gia giảm, đồng thời do nhu cầu nâng cao chất lượng phục vụ lễ hội mà đã hình thành nên các đội Hò Bá trạo bán chuyên và chuyên nghiệp. Từ đó, các làng biển mất dần các đội Hò Bá trạo hoặc chỉ còn giữ lại những trạo phu còn các vai chủ chốt như Tông Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương thì phải nhờ những người chuyên nghiệp thủ diễn.
Do xuất phát điểm của trò diễn Hò Bá Trạo là nhằm cúng tế Ông Nam Hải nên cho dù theo thời gian trò diễn đã được chuyên nghiệp hóa từng phần, được bổ sung nhiều mặt nhưng nó vẫn giữ được phong vị và tính chất như thời kỳ đầu và chỉ được dùng riêng trong Lễ hội Cầu Ngư hay những ngày tế lễ có liên quan đến Ông Nam Hải của cư dân miền biển Nam Trung bộ và Khánh Hòa, góp phần tạo nên bản sắc cho một vùng đất.
Qua khảo sát các bổn tuồng Hò Bá trạo đang tồn tại ở Khánh Hòa có thể thấy, tuy các bổn tuồng có sự khác nhau về ngôn ngữ văn học, làn điệu ca hát và dộ dài ngắn… nhưng nội dung đều tập trung ca ngợi công đức Ông Nam Hải và ước mong cuộc sống an hòa, cầu cho được mùa tôm cá. Và cho dù bổn tuồng, cách diễn có khác nhau nhưng tựu chung đều có chung cấu trúc, bố cục. Sự thống nhất cấu trúc, bố cục và nội dung đã tạo lên một kịch bản tổng hợp và hình thành trò diễn có chung tên gọi: Hò Bá trạo. Sau đây là cấu trúc trò diễn Hò Bá trạo ở Khánh Hòa.
Hình tượng các nhân vật trong trò diễn Hò Bá trạo:
– Tổng Lái: Là nhân vật chủ thuyền, được hóa trang thành một lão ngư và đảm trách ở vị trí người cầm lái. Tổng Lái mặc áo dài đen hoặc xanh quần trắng, tay cầm mái chèo dài chừng 2,4m, là người lĩnh xướng điều hành cả đội chèo.
– Tổng Mũi: Được hóa trang thành một trung niên khỏe mạnh, đứng ở vị trí đầu thuyền, tay cầm cặp sanh để gõ nhịp cho cả đoàn cùng ca diễn. Cũng như Tổng Lái, nhân vật Tổng Mũi thường hát lĩnh xướng và nhất thiết phải là người vững vàng về nghề ca diễn vì ngoài việc đảm trách vai diễn của mình, Tổng Mũi còn là người giữ nhịp điều hành cho cả trò diễn.
– Tổng Thương: Là nhân vật mang tính chất hài, đứng ở vị trí giữa khoang nên còn gọi là Tổng Khoang. Tổng Khoang trong trò diễn là người lo việc giữ thuyền, tát nước, nấu bếp…Tổng Khoang mặc áo ngắn màu đen, tay cầm chiếc gậy có hình con cá, mặt vẽ ria chuột nên còn có tên là Tổng Chuột.
– Trạo phu: Có từ 10 đến 16 người, tay cầm mái chèo ngắn 1,2m. Các trạo phu đều mặc áo chẽn màu xanh (hoặc đen), quần trắng, tay áo và ống quần đều bó xà cạp; đầu đội nón chóp như kiểu lính thú thời xưa.Tất cả sắp xếp thành hai hàng dọc tạo thành mô hình con tàu đang lướt sóng ra khơi, đồng thời cũng tượng trưng cho những người hầu của Ông Nam Hải.
Cấu trúc bổn tuồng Hò Bá trạo:
Qua khảo sát các văn bản cho thấy Hò Bá trạo ở Khánh Hòa có cấu trúc như sau:
– Lớp I – Giáo đầu: Do Tổng Lái đảm trách. Là lớp giới thiệu lý do diễn ra Hò Bá trạo. Tùy mục đích của cuộc tế lễ mà phần nội dung của lớp giáo đầu có thể thay đổi khác nhau. Lớp giáo đầu thường được nối sau đoạn múa xếp chữ chúc phúc và lạy Ông Nam Hải.
– Lớp II – Ra khơi: Là lớp chủ yếu và quan trọng nhất của trò diễn Hò Bá trạo. Nó quan trọng nhất không chỉ vì đây là lớp có dài nhất (gần một nửa trò diễn) mà còn vì ở lớp này các trình thức biểu diễn của trò diễn được phát huy nhiều nhất và qua đó bộc lộ toàn bộ chủ đề tư tưởng, nội dung của trò diễn.
Trong lớp này sử dụng khá nhiều trình thức sân khấu, các cách hát được lấy từ nghệ thuật hát bội được đan xen với các làn điệu dân ca đặc trưng trong đó bài ‘Hò Bá trạo’ nối sang điệu hát Nam được sử dụng nhiều lần. Nhà nghiên cứu Mịch Quang đã viết: “…Từ xưa điệu hát Nam chỉ sử dụng cho lúc sắp sửa ra đi và trên đường đi. Hát Nam không bao giờ được sử dụng cho đối thoại, chủ yếu là độc thoại mà là độc thoại trên đường đi, chứ tuyệt đối không phải là độc thoại trường dạ…” Và ông đã nhấn mạnh chức năng của hát Nam là “biểu hiện tâm sự nhân vật trên đường đi”. Sự kết hợp đó nhằm diễn tả quá trình con thuyền đang vượt sóng ra khơi và tình cảm của ngư dân đối với biển trời và khát khao của họ.
– Lớp III – Tổng Thương xem giông: Là lớp mô tả cảnh con thuyền đang tạm nghỉ trên biển. Khi tất cả mọi người đều ngủ chỉ còn mỗi mình Tổng Thương lo canh chừng thuyền và tát nước. Đây là lớp dành riêng cho nhân vật Tổng Thương độc diễn và là lớp có nhiều tình tiết gây cười, cho phép người diễn được ngẫu hứng tối đa nên đòi hỏi nên đòi hỏi người diễn phải giỏi. Lớp diễn được kết thúc khi Tổng Thương phát hiện cơn giông đang bất ngờ ập đến và đánh thức mọi người dậy để ứng phó với cơn giông.
Lớp diễn Tổng thương xem giông là cái đời thường nằm ngay trong không khí thiêng liêng của phần lễ, làm cho sự giao hòa giữa thần linh và con người thêm gắn bó, tính nhân văn vì thế càng cao hơn.
– Lớp IV – Về bến: Mô tả cảnh đoàn ngư dân đang chống chọi với cơn giông để đưa con thuyền về bến an toàn. Đây là lớp có sử dụng nhiều điệu hò đặc hữu của trò diễn Hò Bá trạo như: Hò Mái dặm, Hò Mái ngơi, Hò Nhại, Hò Bá trạo… tạo nên lớp diễn sôi động và mạnh mẽ như tinh thần vượt thắng gian nguy của người dân biển.