
Thông tin Lễ hội:
Được xây dựng vào năm 1861, chùa Tuyên Linh không chỉ được coi là một trung tâm Phật giáo lớn của tỉnh Bến Tre mà còn là một ngôi chùa có bề dày lịch sử Cách mạng.
Toàn cảnh chùa
1. Tên Di sản/ Di tích: Chùa Tuyên Linh
2. Thời gian:
- Năm 1861 (năm Tự Đức thứ 14): Chùa được thành lập, có tên gọi là “Tiên Linh”
- Năm 1924: Chùa được trùng tư lần đầu
- Năm 1930: Chùa được đổi tên thành “Tuyên Linh”
- Năm 1941 và 1983: Chùa tiếp tục được tu sửa và mở rộng
- Năm 1999: Chùa được đại trùng tu trên nền cũ
3. Năm công nhận:
Ngày 20/7/1994, Bộ Văn hóa-Thông tin đã ký quyết định số 921-QĐ/BT công nhận chùa Tuyên Linh là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia.
4. Vị trí/ Địa hình:
Chùa Tuyên Linh nằm ở Ấp Tân Quới Đông B, Xã Minh Đức, Huyện Mỏ Cày, Tỉnh Bến Tre.
Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nằm cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông với chiều dài đường biển khoảng 65km và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.315km2 với dáng hình gần như một tam giác cân, có trục Tây Bắc – Đông Nam, cạnh đáy tiếp giáp với biển Đông có chiều dài khoảng 65 km, hai cạnh hai bên là sông Tiền và sông Cổ Chiên. Bến Tre được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao Minh, và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ Chiên 82 km). Bến Tre có địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao từ 1 – 2 m; rải rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dải rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Bến Tre có hệ thống kênh rạch chằng chịt, ăn thông với nhau, nối liền với các sông lớn.
5. Thổ nhưỡng:
Đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre khá đa dạng, phong phú, có thể phân thành các nhóm chính: Nhóm đất phù sa (chiếm khoảng 84% diện tích canh tác; Nhóm đất phèn (chiếm khoảng 9,4% diện tích) và Nhóm đất cát (chiếm khoảng 6,8% diện tích).
6. Khí hậu:
Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 260C – 270C. Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão lũ, khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm.
7. Dân cư:
Theo thống kê năm 2011, dân số của tỉnh Bến Tre đạt 1.257.800 người, với mật độ dân số 533 người/km2. Dân số nam đạt 616.000 người, dân số nữ đạt 640.900 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 5,2%. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh Bến Tre là 64,5%. Bến Tre là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống như: Kinh, Hoa, Khmer, Tày, Chăm, Gia Rai, Ngái, Ê Đê, Thái. Trong đó người Kinh chiếm tuyệt đại đa số (99% tổng số dân của tỉnh). Sau người Kinh là người Hoa với khoảng 6.088 người vào năm 2005, chiếm 0,47% dân số. Còn lại là các dân tộc khác.
8. Tóm tắt nội dung (tổng quan):
Ban đầu, chùa có tên gọi là Tiên Linh, được xây dựng bằng các vật liệu tre, lá để thờ một người phụ nữ bị cọp vồ chết. Trải qua nhiều lần tu sửa và trùng tu, tổng diện tích khuôn viên hiện tại của chùa vào khoảng 9.000m2. Tuy nhiên, những hiện vật găn với quá khứ của chùa không còn nhiều. Chùa có pho tượng hộ pháp cao 0,7m bằng đồng cổ. Vườn chùa có dựng bảo tháp ghi tên ba vị Tổ: Hòa thượng Khánh Phong (1823-1905), Thiền sư Minh Bảo (1846-1919) và Pháp sư Khánh Hòa (1877-1948). Năm 2003, chùa tiếp nhận đại hồng chung cao 1,7m, nặng trên 330kg.
Chùa Tuyên Linh được coi là một trong những trung tâm phật giáo của tỉnh Bến Tre. Trụ trì đầu tiên của chùa là hòa thượng Khánh Phong. Năm 1907, nhà sư Lê Khánh Hòa, pháp danh là Thích Như Trí, quê ở xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, vốn là một vị cao tăng tinh thông phật học, về trụ trì tại chùa này. Tại đây, hòa thượng Lê Khánh Hòa đã mở mang việc thuyết giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo môn sinh. Nhờ hiểu rộng, đi nhiều nơi, có vốn nho học, lại biết cả chữ quốc ngữ, nên ông được tín đồ, các cư sĩ Phật giáo tín nhiệm. Hòa Thượng là người sáng lập ra Nam Kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội quy tụ nhiều cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, đồng thời là chủ bút tạp chí Từ bi âm, giám đốc Phật học tùng thư.
Khuôn viên chùa
Khuôn viên chùa
Chùa Tuyên Linh còn là một ngôi chùa có bề dày truyền thống Cách Mạng. Thời kháng chiến chống Pháp, đây là một là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đã động viên các nhà sư và tín đồ Phật giáo trong tỉnh tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến. Năm 1947, trên giường bệnh, ông đọc lời di ngôn cho môn đồ chép lại, căn dặn học trò thân tín vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào Chính phủ Cụ Hồ, cùng đồng bào cả nước đấu tranh giành độc lập. Trong những năm trước Đồng khởi, trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của Mỹ, Diệm, vùng Tân Hương - Minh Đức, nơi có chùa Tuyên Linh , vẫn là một trong những nơi có phong trào Cách mạng phát triển mạnh mẽ nhất của tỉnh Bến Tre. Các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày và Tỉnh ủy Bến Tre đã từng trú đóng tại chùa Tuyên Linh dưới sự giúp đỡ, che giấy của nhân dân và tín đồ đạo Phật giáo trong thời gian hoạt động Cách mạng.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã từng nhiều lần ghé lại tá túc tại chùa Tuyên Linh; trong đó thời gian lâu nhất là từ cuối năm 1926 đến năm 1929. Tại đây, cụ Phó bảng được sự giúp đỡ của hòa thượng Lê Khánh Hòa, đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Cụ cũng từng gặp gỡ các ông: Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Pháp… - trong số họ sau này có người trở thành lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Bến Tre. Theo một số thông tin, năm 1930, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đổi tên chùa thành Tuyên Linh theo gợi ý của cụ Phó bảng; trong đó “Tuyên” có nghĩa là “Tuyên truyền”.
Tấm bia ghi lại thời kỳ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trú tại chùa
Ngoài những lệ cúng trong năm, vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác (19/5), một lễ hội văn hóa với quy mô lớn được tổ chức tại chùa Tuyên Linh.