
Lễ hội Trò Trám được bảo tồn, thực hành tại xóm Trám, xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Tương truyền, người lập ra xóm Trám là ông Ngô Quang Điện và con gái là Ngô Thị Thanh, người có công lao to lớn trong việc dạy dân làm ăn và ổn định cuộc sống. Vì thương dân nghèo khó nên hàng năm, bà Thanh cùng cha mình tổ chức hội Trò mua vui trong ngày đầu xuân, khuyến khích người dân lao động và thu hút thêm người về xóm. Đây cũng chính là nguồn gốc của Lễ hội Trò Trám. Sau này, người dân xóm Trám mở hội hàng năm vào dịp đầu xuân không chỉ tưởng nhớ công lao của người đã có công khai dân, lập ấp, mà còn tiếp nối hội Trò vốn đã được sáng tạo, thực hành trong quá khứ của người dân xóm Trám.
Lễ hội Trò Trám từ xa xưa được định kỳ tổ chức vào 2 ngày, ngày 11 và 12 tháng Giêng, nổi tiếng ở phủ Lâm Thao xưa, trong và ngoài tỉnh Phú Thọ hiện nay với câu ca truyền lại: “Bà ẵm cháu, mẹ bồng con. Không xem Trò Trám cũng buồn cả năm”.
Ngày 11 tháng Giêng: Vào giữa giờ Tuất (khoảng 8 giờ tối), có nghi lễ tế nữ thần bản thổ, cầu khấn cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh, sinh lực dồi dào, làng xóm đông vui, sầm uất, gia đình hạnh phúc, con đàn cháu đống và xin phép mở hội. Sau nghi lễ cáo tế, các cụ cao niên cùng nhau ngồi túc chực trước miếu Trám đến đêm mà phụng sự, hương khói thần linh cho chu đáo.
Vào giờ Tý (12 giờ đêm), tại miếu Trám có lễ mật, gọi là lễ “Linh tinh tình phộc”, là một dạng của lễ cầu sinh thực khí, nghi lễ linh thiêng nhất trong năm của người dân xóm Trám để cầu mong sự sinh sôi này nở cho con người và vạn vật. Lễ mật được tiến hành vào nửa đêm (giờ Tý), là giờ khắc thiêng liêng. Trong miếu chỉ có ông từ và một đôi nam nữ đã được dân làng chọn để thực hiện nghi lễ, nam đóng khố cởi trần, nữ vận váy đen, mặc yếm đào bên trong, tóc đuôi gà. Ông từ thắp 3 nén hương xin phép đưa tráp gỗ sơn son đựng vật linh “Nõ - Nường” cất trên thượng cung xuống để trên ban thờ, chuẩn bị làm lễ mật. Ông từ dẫn đôi nam, nữ đứng vào hai bên trước ban thờ (tả nam, hữu nữ). Ông từ ngồi trước ban thờ, tay nâng cây đàn tượng trưng (gọi là đàn giằng xay), làm động tác đánh đàn và hát, nội dung mang tính cầu chúc. Dứt lời hát, ông từ gieo quẻ âm dương xin phép, rồi mở hòm gỗ, lấy vật linh Nõ - Nường ra đưa cho đôi nam nữ, nam cầm Nõ, nữ cầm Nường. Đôi nam, nữ đứng quay mặt vào nhau trong tư thế người rướn về phía trước, chân trái bước lên phía trước, chân phải đưa ra phía sau, tay giơ Nõ - Nường chờ đợi. Khi đèn nến trong miếu Trám vụt tắt, bắt đầu nghi thức giao phối thiêng liêng trước bàn thờ. Khi ông từ hô “Linh tinh tình phộc”, đến tiếng “phộc” thì đôi nam nữ đưa vật linh Nõ - Nường chọc nhanh vào nhau cho khớp như một hành vi tượng trưng mang tính giao hợp. Ông từ hô “Linh tinh tình phộc” và đôi nam nữ thực hiện hành vi tính giao như thế 3 lần, trong đêm tối, ông từ nghe đủ 3 tiếng “cạch”, nếu không bị chệch ra ngoài lần nào thì người ta cho đó là điềm lành, năm ấy cả làng sẽ có mùa màng bội thu, nhà nhà ăn nên làm ra. Sau khi lễ mật hoàn tất, ông từ hô to “Tháo khoán”! Sau tiếng hô tháo khoán, tất cả những người dự lễ, chủ yếu là nam nữ thanh niên tự do đùa nghịch quanh miếu Trám ( Nhưng hiện nay hoàn cảnh cuộc sống đã thay đổi văn minh, nên những hành vi lợi dụng Lễ hội cần được lên án và xử lý nghiêm minh).
Ngày 12 tháng Giêng: Vào giờ Thìn (8h sáng) dân làng tổ chức nghi lễ rước lúa thần, lễ vật quan trọng nhất là cụm lúa thần được cắm vào lộc bình đặt trên kiệu bát cống cùng hương, hoa, quả, trầu, cau. Đi đầu đám rước là đội Trò hóa trang trong các vai diễn “trò”, mang dụng cụ trình nghề vừa đi vừa biểu diễn gây cười (người cầm loa gọi loa, dẹp đường đi, người cầm biển, người đi cày đi phía sau con voi, người đi câu, thợ mộc, thợ xẻ, mấy cô kéo sợi, thầy đồ cùng học trò, cô gái “bán xuân); tiếp theo là trống cái, phường bát âm với trống, kèn, nhị... đi sát bên kiệu; đội cờ thần; tiếp là các chấp kích vác đồ lễ bộ bằng gỗ sơn son thếp vàng; tiếp là kiệu bát cống rước bát hương đang tỏa khói hương nghi ngút, ngũ quả, trầu cau, cụm lúa thần, bên trên có tán đỏ che tôn nghiêm; sau long kiệu là hàng bô và dân làng đủ mọi lứa tuổi, trẻ con đi theo đám rước, chen chúc nhau, reo vui, cười đùa, tạo nên không khí hồn nhiên, sảng khoái... thỉnh thoảng lại reo hò và hú: “Hù hù hê! Hù hù hê! ...” náo động khắp xóm trong, ngõ ngoài. Trên đường đi, khi đến các ngã ba, đám rước dừng lại cho đội Trò biểu diễn trò “Tứ dân chi nghiệp”. Lễ rước lúa thần đi từ điếm Trám vòng quanh làng, qua hồ Trám, trở về miếu Trám.
Trên sân miếu Trám, trò trình nghề “Tứ dân chi nghiệp” đặc sắc của Lễ hội Trò Trám bắt đầu, mô phỏng các nghề của địa phương trong xã hội phong kiến với 4 nghề cơ bản là Sĩ, nông, công, thương, vì vậy còn được gọi là trò “Bách nghệ khôi hài” bởi tính hài hước, độc đáo của trò diễn thể hiện trong lời ca và lối trình diễn hài hước chọc cười. Trong nghệ thuật trình nghề của trò Trám, vai chính hát trước, các vai diễn cùng hát đế theo, nhắc lại câu hát. Các vai “trò” ra trình diễn theo trình tự: Người gọi loa; người cầm biểu; người gẩy đàn tranh; người đi cày; nhóm các cô thợ cấy; nhóm thợ mộc và thợ xẻ; người đi câu; người đánh lờ; thầy đồ dạy học; người đi bán xuân và nhóm quay tơ, kéo sợi và cung bông. Mỗi vai trình diễn nghề của mình bằng lời ca, đạo cụ động tác tương tự. Trong trò “Tứ dân chi nghiệp” nội dung phồn thực xuyên suốt các lớp diễn, được thể hiện mộc mạc và hóm hỉnh với các vai diễn đều nhún nhảy điệu nghệ mang dáng vẻ hài hước của lễ hội phồn thực. Buổi chiều, ông từ và ban hành lễ làm lễ tạ đức Bản thổ. Lễ hội kết thúc trong dư âm của tiếng trống, tiếng cười và những nghi lễ tín ngưỡng thiêng liêng.
Lễ hội Trò Trám là lễ hội đặc sắc của người Việt ở vùng Trung du Bắc Bộ, mang đậm giá trị văn hoá cổ truyền và dấu ấn của nền văn minh lúa nước mà những nghi lễ, tập tục, trò diễn ẩn chứa nét văn hóa nguyên thủy trong đời sống tinh thần của cư dân nông nghiệp truyền thống; mang đậm tín ngưỡng phồn thực, đặc biệt được thể hiện trong “Lễ mật”, mang một màu sắc linh thiêng với tâm nguyện của con người cầu mong cho sự bình an, sự sinh sôi nảy nở cho con người, cây trồng, vật nuôi và cầu cho mùa màng tươi tốt, bội thu. Xét về mặt tín ngưỡng, trò trình nghề trong Lễ hội Trò Trám đi đôi với lễ cầu sinh thực khí, đó là nghi lễ phồn thực cầu đinh và cầu mùa cổ xưa. Lễ hội Trò Trám bao hàm nhiều nghi lễ cổ xưa (lễ mật, hoạt động tính giao Nõ - Nường, rước lúa thần, cày voi...) và tích hợp cả văn học lẫn âm nhạc với những lời ca ẩn ngữ trong trò diễn “Tứ dân chi nghiệp” đều phiếm chỉ về “Nõ - Nường”, đồng thời có nhiều trò diễn cực kỳ phong phú, phóng túng của người đời sau. Tính nghi lễ nghiêm ngặt song hành với tính hài hước và trò diễn dân gian đã khiến Lễ hội Trò Trám trở thành một lễ hội tín ngưỡng phồn thực mà ít nơi có được. Ý nghĩa phồn thực thể hiện đậm nét trong lễ nghi và tập tục của Lễ hội Trò Trám, xuất phát từ quan niệm giao hòa âm - dương/đực - cái ảnh hưởng quyết định tới sinh trưởng của cây lúa, mùa màng. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Toàn Ánh trong một bài khảo đã liệt kê 17 điểm trên Miền Bắc có dòng lễ hội mang hình dáng tính ngưỡng phồn thực và khẳng định Lễ hội Trò Trám là một lễ hội đặc sắc nhất.
Các tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thành hoàng làng, tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước trong Lễ hội Trò Trám đều được duy trì. Lễ rước lúa thần bày tỏ ước nguyện về một mùa màng bội thu, phong đăng hòa cốc, nhân khang vật thịnh, thời tiết thuận hòa. Lễ hội Trò Trám là lễ hội gắn chặt với lịch sử tồn tại, phát triển của cộng đồng, được truyền miệng từ bao đời nay nên hình thức diễn xướng của lễ hội cũng mộc mạc, sơ khai không có màn lớp, không trang trí mỹ thuật, không có sân khấu, không có đạo cụ, nhạc cụ (tất cả đều làm tượng trưng từ những vật dụng nông nghiệp), lối diễn xướng tự nhiên bình dị không hề gò bó trong một nghi thức nào, thậm chí vừa rước trên đường vừa diễn và người diễn có thể tự do bông lơn hài hước giao lưu cùng người dân dự hội. Lễ hội ra đời trong dân gian, gắn với đời sống sinh hoạt tín ngưỡng dân gian nên nghi lễ, tập tục, trò diễn rất rõ ràng, cụ thể, phản ánh chân thực cuộc sống của người dân và hấp dẫn người xem. Những tập tục, những nội dung được phản ánh bằng phương thức lễ thức hóa, nghệ thuật hóa... đã tạo cho lễ hội Trò Trám chức năng tuyên truyền rộng (thường xuyên) và sâu sắc. Tuy chỉ là lễ hội của làng, nhưng âm vang của nó lan tỏa khá rộng, từ phạm vi một vùng đến phạm vi cả nước, thu hút du khách thập phương trong cả nước và cả kiều bào nước ngoài cũng về tham dự.
Lễ hội Trò Trám đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 4036/QĐ-BVHTTDL ngày 21 tháng 11 năm 2016.