
Cứ vào độ tháng hai âm lịch hàng năm, bà con trong khắp khu vực ở Sài Gòn Chợ Lớn (thời xưa) và ngày nay thuộc các quận 8, quận 11, quận 5 và quận 4 Bình chánh và miệt Cần Giuộc, Cần Đước - Long An; cả những người Việt lẫn những người Hoa lại chuẩn bị lễ vật để ngày 12 và ngày 13 tháng hai âm lịch đến cúng viếng tại đình Bình Đông.
Theo lời của các vị bô lão kể lại đã lâu lắm rồi, nơi của ngôi đình hiện nay, dân cư hồi đó thưa thớt lắm làm ăn rất khó khăn. Một hôm, có một người đã vớt được chiếc mão trôi trên rạch, đoán rằng là của một quan quân nào đó bị nạn, nên đã đưa lên gò và khấn vái. Lạ thay, sau đó, vùng này đã trúng mùa liên tục, dân làng làm ăn khấm khá hẳn lên đã qui tụ về dựng nên mái đình ngày nay. Ở nơi bệ thờ chính luôn luôn có những chiếc mão mới được dân làng sùng bái dâng cúng cho đến tận thời bây giờ.
Đình Bình Đông được xây dựng ở trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 TP. Hồ Chí Minh.
Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức ở thôn Bình Đông, thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong là Tự Đức ngũ niên. Như vậy thì đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853 tức là trước năm nhận được sắc. Sắc phong Thần “Thành Hoàng bổn cảnh” của thôn Bình Đông, huyện Tân Long đã ghi là ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý.
Theo như các bô lão thì đình Bình Đông có từ thời xưa, đến năm 1922 đã được trùng tu với mái ngói, vách ván và cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ: võ ca và chánh điện nằm ở giữa, hai bên thì có Đông và Tây lang, ở bên cạnh có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình bị xuống cấp nên mái ngói đã được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước và nền gạch tàu.
Đặc sắc lễ Kỳ Yên đình Bình Đông
vào năm 1968, đình đã bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi cho đến năm 1991, đình mới được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bê tông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể thì vẫn giữ nguyên vẹn. Lần xây dựng này đã có thêm nhà truyền thống. Tuy toàn bộ cảnh quang không bị thay đổi nhưng kết cấu đã không còn nét nữa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật ở bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm viền quanh với rồng vờn châu, tùng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Ở trên bàn thờ thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quý. Trước bàn thờ có bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quý. Cặp liễn treo ở hai bên thờ thần với hàng chữ là:
“Bình tạ chơn linh thánh đức hậu
Đông an đồng nguyện lại thần ân”
Tạm dịch là:
“Cảm tạ đấng anh linh
Nên phía Đông yên ổn, nguyện thờ thần”
Chung quanh cặp liễn có chạm khắc các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác có cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung là ca ngợi công đức thần được treo thuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn có bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông đình có ghi niên đại 1870 được treo trên cửa chánh điện và bức “Diệu - Diệu anh linh” niên đại 1850.
Trong nhà nghĩa từ có bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật để thờ cúng. Bên cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca nhằm phục vụ hát xướng trong ngày đại lễ.
Hàng năm lễ Kỳ Yên sẽ tự diễn ra theo nghi thức được truyền tụng như đầu lễ là Túc yết, chính lễ là Đoàn (Đàn) cả diễn ra rất trịnh trọng có tế thần được gọi là lễ Thỉnh Sanh. Trong lễ sẽ có chánh bái bồi bái, học trò lễ, đào thái theo chiêng trống, kèn của nhạc mà hành lễ. Tiếp đến có lễ “hát bội” trước đó là lễ hầu thần, sau phục vụ bà con đến để chiêm bái. Lệ này được diễn ra hàng năm vào ngày 12 và ngày 13 tháng 2 âm lịch.
Một nghi thức trong lễ Kỳ Yên đình Bình Đông
Đặc biệt năm nào lễ cúng Kỳ Yên của Đình cũng thu hút được hàng vạn người dân đến chiêm ngưỡng và đến cúng bái. Các đình làng lân cận hoặc ở xa tận Long An cũng cử đoàn đến để dâng lễ. .
Đình Bình Đông được bộ văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - VH/QĐ ký ngày 27 tháng 09 năm 1997./.